BS. Nguyễn Văn Đức
Bệnh cao áp huyết xảy ra rất nhiều. Riêng tại Mỹ (nay trên 300 triệu cư dân), khoảng 58-65 triệu người mang bệnh cao áp huyết, như vậy, tính ra cứ 5 người ở Mỹ, có một vị cao áp huyết.
Cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều vị không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một “căn bệnh thầm lặng”.
Cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều vị không biết mình mang bệnh, tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một “căn bệnh thầm lặng”.
Cao áp huyết là gì?
Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đẩy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.
Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đẩy, và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.
Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90. Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): sức ép của máu vào lòng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim. Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): áp suất trong lòng động mạch khi tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp.
Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong lòng động mạch, và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong lòng động mạch.
Theo sự phân loại mới, áp suất systolic bình thường dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80. Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất 2 lần, vào ít nhất 3 dịp thăm khám khác nhau); cao độ 1: áp suất systolic: 140 đến 159, áp suất diastolic: 90 đến 99; cao độ 2: áp suất systolic: từ 160 trở lên, áp suất diastolic: từ 100 trở lên.
Những vị có áp suất systolic trong khoảng từ 120 đến 139, hoặc áp suất diastolic từ 80 đến 89, nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension), sau dễ tiến đến cao áp huyết.
Như vậy, để tóm tắt:
- Áp huyết bình thường: áp suất systolic dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80
- Tiền cao áp huyết: áp suất systolic 120-139 hay áp suất diastolic 80-89
- Cao áp huyết:
+ Độ 1: áp suất systolic 140-159 hay áp suất diastolic 90-99
+ Độ 2: áp suất systolic từ 160 trở lên hay áp suất diastolic từ 100 trở lên.Nguyên nhân
Đến 90% các trường hợp cao áp huyết, nguyên nhân khiến bệnh xuất hiện chưa được biết rõ, hoặc nói cách khác, với trình độ y khoa hiện tại, người ta chưa tìm ra được nguyên nhân gây bệnh.
- Áp huyết bình thường: áp suất systolic dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80
- Tiền cao áp huyết: áp suất systolic 120-139 hay áp suất diastolic 80-89
- Cao áp huyết:
+ Độ 1: áp suất systolic 140-159 hay áp suất diastolic 90-99
+ Độ 2: áp suất systolic từ 160 trở lên hay áp suất diastolic từ 100 trở lên.Nguyên nhân
Đến 90% các trường hợp cao áp huyết, nguyên nhân khiến bệnh xuất hiện chưa được biết rõ, hoặc nói cách khác, với trình độ y khoa hiện tại, người ta chưa tìm ra được nguyên nhân gây bệnh.
Có một số yếu tố ảnh hưởng, khiến chúng ta dễ mang bệnh cao áp huyết:
- Tuổi tác: càng cao tuổi, nhất là khi trên 60, chúng ta càng dễ cao áp huyết.
- Yếu tố gia đình: cao áp huyết có tính di truyền. Có cha mẹ, anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ, bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn.
- Giòng giống: người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng, và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
- Béo mập: khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
- Cao mỡ trong máu: người cao mỡ trong máu dễ bị cao áp huyết hơn người không cao mỡ trong máu.
- Rượu: các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết, đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
- Đời sống thiếu vận động: đời sống thiếu vận động có thể đưa đến cao áp huyết. Ngược lại, thường xuyên vận động giúp ngừa bệnh cao áp huyết.
- Ăn mặn: ăn mặn, dùng thức ăn chứa nhiều muối cũng là một yếu tố có thể làm chúng ta dễ cao áp huyết. Cơ thể một số người chúng ta có khuynh hướng nhạy ứng với muối khiến áp huyết dần tăng cao.
- Tuổi tác: càng cao tuổi, nhất là khi trên 60, chúng ta càng dễ cao áp huyết.
- Yếu tố gia đình: cao áp huyết có tính di truyền. Có cha mẹ, anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ, bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn.
- Giòng giống: người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng, và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
- Béo mập: khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
- Cao mỡ trong máu: người cao mỡ trong máu dễ bị cao áp huyết hơn người không cao mỡ trong máu.
- Rượu: các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết, đồng thời cũng làm tăng tỉ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
- Đời sống thiếu vận động: đời sống thiếu vận động có thể đưa đến cao áp huyết. Ngược lại, thường xuyên vận động giúp ngừa bệnh cao áp huyết.
- Ăn mặn: ăn mặn, dùng thức ăn chứa nhiều muối cũng là một yếu tố có thể làm chúng ta dễ cao áp huyết. Cơ thể một số người chúng ta có khuynh hướng nhạy ứng với muối khiến áp huyết dần tăng cao.
Một số nhỏ các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá, bệnh của tuyến nội tiết, bệnh thận, chứng ngưng thở trong lúc ngủ (sleep apnea), dùng thuốc ngừa thai, dùng các thuốc giảm đau loại chống viêm không có chất steroid (nonsteroidal antiinflammatory drugs như Celebrex, Ibuprofen, Naproxen, ...) lâu ngày, v.v..
Biến chứng của cao áp huyết
Bệnh cao áp huyết nguy hiểm, vì không chữa trị, sẽ làm hại cơ thể chúng ta nhiều cách. Áp huyết cao hơn bình thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn. Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi, và yếu dần. Cho đến một lúc, con tim suy yếu sẽ không còn bơm đủ máu, không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể, nhất là khi người bệnh vận động, gây các triệu chứng mau mệt, choáng váng, khó thở, ..., nhất là khi vận động.
Bệnh cao áp huyết nguy hiểm, vì không chữa trị, sẽ làm hại cơ thể chúng ta nhiều cách. Áp huyết cao hơn bình thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn. Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi, và yếu dần. Cho đến một lúc, con tim suy yếu sẽ không còn bơm đủ máu, không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể, nhất là khi người bệnh vận động, gây các triệu chứng mau mệt, choáng váng, khó thở, ..., nhất là khi vận động.
Áp suất cao trong các mạch máu có thể làm tổn thương thành của các mạch máu. Những chỗ tổn thương trong lòng các mạch máu dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu (platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào. Cơ chế dây chuyền này lại càng làm lòng các mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại. Bạn tưởng tượng, nếu các mạch máu dẫn máu đến nuôi tim càng lúc càng tổn thương và nhỏ hẹp lại, dĩ nhiên đến một ngày nào đó, sẽ không còn mang đủ máu đến để nuôi tim. Nếu một phần tim thiếu máu nuôi trầm trọng, phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết cơ tim cấp tính (heart attack).
Tương tự, cao áp huyết làm tổn thương các mạch máu nuôi óc, nuôi thận, nuôi mắt, ... gây các biến chứng tai biến mạch máu não (stroke), suy thận, giảm thị giác, ... So với người thường, người cao áp huyết, nếu không chữa, dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch vành tim (coronary artery disease) khiến tim đâm thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 lần, dễ suy tim gấp 6 lần, và dễ bị tai biến mạch máu não gấp 7 lần.
Những trường hợp áp huyết quá cao (từ 180/120 trở lên) và người bệnh có triệu chứng, có thể nguy đến tính mạng ngay, cần được chữa trị cấp kỳ.
Tìm hiểu các cách chữa trị bệnh cao áp huyết
Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận, để giảm thiểu những biến chứng, giúp ta sống lâu hơn và vui hơn. Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác. Nói chung, với người dưới 80 tuổi, mục tiêu chữa trị là đưa áp huyết xuống dưới 140/90.
Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận, để giảm thiểu những biến chứng, giúp ta sống lâu hơn và vui hơn. Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác. Nói chung, với người dưới 80 tuổi, mục tiêu chữa trị là đưa áp huyết xuống dưới 140/90.
Chữa bệnh cao áp huyết có hai cách: cách chưa cần dùng đến thuốc (nonpharmacologic therapy) và cách chữa bằng thuốc (pharmacologic therapy).
Chữa chưa cần dùng thuốc
Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên, cần chữa trị sớm, những trường hợp cao áp huyết nhẹ, chưa làm hư hoại cơ quan nào trong cơ thể, chúng ta có thể chữa bằng các phương cách chưa dùng đến thuốc trong vài tháng.
Trừ khi áp huyết lên cao quá, từ 160/100 trở lên, cần chữa trị sớm, những trường hợp cao áp huyết nhẹ, chưa làm hư hoại cơ quan nào trong cơ thể, chúng ta có thể chữa bằng các phương cách chưa dùng đến thuốc trong vài tháng.
Các phương cách chữa trị chưa dùng đến thuốc: xuống cân nếu béo mập, ăn một thực phẩm ít mặn và ít chất béo, bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động (ít nhất 30-45 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày mỗi tuần).
Mỗi người chúng ta có một sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người. Nếu người cao áp huyết có sức nặng trên sức nặng lý tưởng, bác sĩ thường khuyên người bệnh tìm cách xuống cân bằng ăn kiêng (diet) và vận động (exercise). Rất nhiều trường hợp cao áp huyết, khi người bệnh béo mập xuống cân, áp huyết dần xuống dưới 140/90.
Chữa với thuốc
Chữa vài tháng với những phương cách chưa dùng đến thuốc như trên, nếu áp huyết vẫn không xuống dưới 140/90 như mong muốn, chúng ta cần dùng đến thuốc uống để chữa bệnh.
Chữa vài tháng với những phương cách chưa dùng đến thuốc như trên, nếu áp huyết vẫn không xuống dưới 140/90 như mong muốn, chúng ta cần dùng đến thuốc uống để chữa bệnh.
Về mặt chữa bằng thuốc, có rất nhiều điều bác sĩ cần suy tính trước khi đặt bút biên toa. Ta cố đưa áp huyết xuống dưới 140/90 (ở người tiểu đường, người có bệnh tim mạch, người suy thận, nên dưới 130/80), với một thuốc rẻ, không gây tác dụng phụ (side effects), không ảnh hưởng đến các bệnh khác chúng ta đang mang, ngày dùng chỉ một lần cho tiện.
Thuốc chữa cao áp huyết ở Mỹ hiện có 8 loại chính: Diuretics, ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers, Calcium channel blockers, Beta blockers, Alpha blockers, Direct vasodilators, Centrally acting agents, tác dụng theo những cơ chế khác nhau, giá cả cũng rất khác, có thuốc rẻ, có thuốc đắt. Thuốc nào cũng có mặt lợi và bất lợi, những tác dụng phụ của nó.
Nhiều thuốc cao áp huyết có tác dụng chữa được cả bệnh khác nữa, chẳng hạn các thuốc Atenolol, Propanolol, Timolol ngừa được các cơn nhức đầu một bên migraine; hai thuốc Hytrin, Cardura làm giảm các triệu chứng của bệnh to nhiếp hộ tuyến, khéo dùng thuốc, ta có thể một ná bắn hai chim, dùng một thuốc chữa cả hai bệnh. Rồi có thuốc như các thuốc trong hai nhóm ACE inhibitors, Angiotensin II receptor blockers tốt cho thận khi chúng ta bị tiểu đường, nên nếu đang có tiểu đường, nay thêm bệnh cao áp huyết, bác sĩ thường thử các thuốc này để chữa cao ap huyết cho chúng ta trước.
Thường bác sĩ chữa bằng một thuốc, nhưng nếu một thuốc không kiểm soát được áp huyết của chúng ta, bác sĩ sẽ dùng đến thuốc thứ hai, thứ ba. Hiện nay có nhiều viên thuốc phối hợp, trong chứa hai hay ba chất thuốc, rất tiện lợi khi chúng ta phải dùng đến hai hay ba thuốc để chữa bệnh.
Chúng ta nên uống thuốc đều như lời dặn dò của bác sĩ, không nên tự thay đổi lượng thuốc hoặc ngưng thuốc khi thấy áp huyết đã xuống lại bình thường, và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn với bác sĩ. Cao áp huyết là bệnh kinh niên, suốt đời ta cần chữa kỹ.
Sự chữa trị nào trong y khoa cũng là tính toán, dò dẫm, chúng ta nên để bác sĩ có dịp xem chúng ta vài lần. Dùng một thuốc cao áp huyết không hợp, gây tác dụng phụ khó chịu, chúng ta nên trở lại cho bác sĩ biết, nhờ bác sĩ điều chỉnh sự chữa trị, bớt thuốc hoặc đổi sang một thuốc khác. Chúng ta chớ vội nghe rỉ tai: “Thuốc tây nóng lắm, chả nên dùng” (như thế thì... tội cho thuốc tây lắm, một thuốc rủi làm chúng ta khó chịu, hàng trăm thuốc khác chịu hàm oan), rồi mất tiền vào những chữa trị chẳng có sách vở nào nói đến, cho đến một sáng đẹp trời, chúng ta mở mắt thức dậy, thấy một bên người liệt vì tai biến mạch máu não. Muộn mất rồi.)
Cao áp huyết, “căn bệnh thầm lặng”, lặng lẽ làm tổn thương các cơ quan của cơ thể và rút ngắn tuổi thọ chúng ta, có khi đưa đến “heart attack” (chết cơ tim cấp tính) gây tử vong bất ngờ. Sự chữa trị bệnh cao áp huyết cần rất nhiều tính toán và thường xuyên theo dõi bởi bác sĩ. Chúng ta chớ nên tự chữa lấy ở nhà với thuốc của người thân quen cho. (Ngược lại, vị nào đang dùng thuốc cao áp huyết cũng không nên chia thuốc cho người khác, nhưng khuyên họ đi khám bác sĩ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét